Quy chế mới làm tăng số lượng tiến sĩ nhưng chất lượng khó tăng

Theo Thông tư số 18/2021/TT-BGDĐT ngày 28/6/2021 của Bộ GD - ĐT, quy chế mới về đào đạo tiến sĩ đã được ban hành và có những điểm khác so với quy chế năm 2017. Theo một số ý kiến, quy chế mới giúp nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam và cũng giúp nâng cao chất lượng của các tạp chí khoa học của Việt Nam.

Theo TS Lê Văn Út, Trưởng Nhóm nghiên cứu trắc lượng thông tin, trường ĐH Tôn Đức Thắng, việc xem xét và đánh giá cẩn thận những khía cạnh này là hết sức cần thiết.

Thứ nhất, quy chế mới nới lỏng yêu cầu kết quả công bố trong luận án trước khi bảo vệ. Theo quy chế mới, nghiên cứu sinh chỉ cần công bố công trình trên những tạp chí trong nước và được tính điểm là có thể bảo vệ luân án tiến sĩ. Trong khi đó, quy chế năm 2017 bắt buộc nghiên cứu sinh phải có công bố trên các tạp chí/ hội thảo nước ngoài, trong đó có tạp chí ISI/ Scopus. Như vậy, quy chế mới giúp cho việc hoàn thành luận án được thuận lợi hơn và tốc độ đào tạo tiến sĩ của Việt Nam có thể sẽ nhanh hơn trong thời gian tới.

TS Lê Văn Út.

Cũng cần nói thêm, đã đến lúc cần xem lại khái niệm “tạp chí nước ngoài” hay “tạp chí trong nước”. Thực chất, Việt Nam đã có những tạp chí được xuất bản bằng tiếng Anh, thu hút công trình toàn cầu và có những tạp chí đã được công nhận trên thế giới thông qua việc những tạp chí này được liệt kê vào các cơ sở dữ liệu ISI/ Scopus. Và ắt hẳn những tạp chí này cũng được xếp vào “tạp chí trong nước”, nhưng bản chất thì những tạp chí này là những tạp chí quốc tế. Đã đến lúc cần xem lại các khái niệm “tạp chí nước ngoài” hay “tạp chí trong nước”.

Nếu cần phân biệt thì nên chia hai nhóm như sau, một là tạp chí quốc tế gồm cả những tạp chí nước ngoài có uy tín (được liệt kê vào các cơ sở dữ liệu ISI/ Scopus hay được xuất bản bởi những tổ chức uy tín) và có nhiều tạp chí của Việt Nam đã đạt chuẩn này, hai là tạp chí không quốc tế (hay tạp chí quốc gia, được tính điểm) gồm các tạp chí xuất bản bằng tiếng Việt. Từ đó, khó có thể nói quy chế mới giúp nâng cao chấp lượng của các luận án tiến sĩ.

Thứ hai, về yêu cầu chuẩn tiếng Anh thì quy chế mới nới lỏng hơn bằng việc chấp nhận chứng chỉ quốc gia theo khung ngoại ngữ 6 bậc, bên cạnh việc đánh giá trình độ tiếng Anh một cách khách quan và chuẩn mực hơn thông qua các chứng chỉ IELTS (Anh) hay TOEFL (Mỹ) thể hiện bằng các mức điểm cụ thể. Việc này chắc chắn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nghiên cứu sinh trong việc hoàn tất chương trình tiến sĩ và nghĩa là Việt Nam có thể sẽ có nhiều tiến sĩ hơn trong thời gian tới, chứ khó có thể nói giúp tăng chất lượng của các tiến sĩ.

Thứ ba, số lượng nghiên cứu mà mỗi giáo sư được phép hướng dẫn tại mỗi thời điểm được tăng thêm 2, tương ứng với phó giáo sư là 1, so với quy chế cũ. Việc nới lỏng này cũng có thể sẽ góp phần tăng nhanh số lượng tiến sĩ được đào tạo.

Rõ ràng, 3 vấn đề được nêu ở trên là liên quan trực tiếp đến chất lượng của đào tạo tiến sĩ. Tuy nhiên, theo phân tích ở trên, việc nới lỏng như trên trước mắt là sẽ góp phần tăng số lượng tiến sĩ được đào tạo, còn về chất lượng thì khó có thể tăng lên so với quy chế mới.

Nên chăng Bộ GD - ĐT có thể tăng cường quyền tự chủ hơn nữa cho các đại học trong việc đào tạo tiến sĩ. Có thể có xem quy chế trên là quy định mức tối thiểu và cho phép các đại học được phép xây dựng chuẩn riêng trong việc đào tạo tiến sĩ của đại học mình và không mâu thuẫn với quy chế của Bộ GD - ĐT vừa ban hành.

Ngoài ra, Bộ GD - ĐT cân nhắc thêm việc đào tạo tiến sĩ ứng dụng (đặc biệt là đối với một số lĩnh vực đặc thù), không nhất thiết phải có các bài báo khoa học trên các tạp chí uy tín trong luận án tiến sĩ, mà luận án tiến sĩ có thể chỉ là các kết quả nghiên cứu ứng dụng trong thực tiễn.

Duy Quang