Yêu cầu, thách thức đổi mới đối với ngành khoa học và công nghệ nhiệm kỳ Đại hội XIII

NHỮNG THÀNH TỰU TRONG GIAI ĐOẠN 2011- 2020

Sau hơn 8 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 1/11/2012 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, hầu hết cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền từ Trung ương đến địa phương đã thể hiện trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết; doanh nghiệp và người dân ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò của KH&CN đối với phát triển kinh tế - xã hội. Tư duy quản lý nhà nước về phát triển KH&CN được đổi mới; pháp luật về KH&CN được hoàn thiện; công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN, cơ chế đầu tư và tài chính, chính sách đối với cán bộ khoa học có tiến bộ đã tạo môi trường ngày càng thuận lợi cho hoạt động KH&CN. KH&CN đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp đáng kể cho tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Tiềm lực KH&CN quốc gia được củng cố theo hướng phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng và địa phương, gắn với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KH&CN trong từng giai đoạn. Đầu tư của doanh nghiệp và khu vực tư nhân cho KH&CN tăng mạnh. Các viện nghiên cứu tiên tiến và chương trình KH&CN tầm chiến lược được hình thành. Đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo được thúc đẩy, lan tỏa trong xã hội. Thị trường KH&CN bước đầu gắn kết hoạt động KH&CN với sản xuất, kinh doanh. Hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ hướng mạnh tới cải thiện môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, dần đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. Hợp tác quốc tế đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần hỗ trợ nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Trong bảng xếp hạng Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2020, Việt Nam xếp hạng 42/131 quốc gia/nền kinh tế, duy trì thành công thứ hạng đã đạt được. So với năm 2019, chỉ số GII của Việt Nam có nhiều kết quả tích cực, đặc biệt chỉ số thành phần về đầu ra ĐMST (sản phẩm sáng tạo) tăng 9 bậc so với năm 2019.

NHỮNG THÁCH THỨC TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Việt Nam đang bắt đầu bước vào một giai đoạn phát triển và hội nhập mới. Cuộc cách mạng sản xuất mới có thể mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời cũng đưa đến những thách thức đối với quá trình phát triển. Thách thức từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đối với ngành KH&CN Việt Nam là:

Thứ nhất, phải có nhận thức đầy đủ về bản chất, tác động của cuộc CMCN 4.0 và khả năng tư duy, quản lý điều phối tích hợp các yếu tố công nghệ, phi công nghệ, giữa thực và ảo, giữa con người và máy móc.

Thứ hai, để gia nhập vào xu thế CMCN 4.0, đòi hỏi phải có sự phát triển dựa trên tích lũy nền tảng lâu dài của nhiều lĩnh vực nghiên cứu cơ bản định hướng trong lĩnh vực KH&CN, đặc biệt là vật lý, sinh học, khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo, các lĩnh vực công nghệ mới, nghiên cứu các công nghệ mang tính đột phá.

Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa tương ứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu, phát triển, đặc biệt là trong khu vực doanh nghiệp còn thấp. Thiếu đội ngũ cán bộ đầu ngành, chuyên gia giỏi, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ.

Thứ tư, thiếu sự gắn kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp, thiếu các tổ chức trung gian của thị trường KH&CN dẫn đến việc KH&CN chưa làm tốt vai trò của việc cung cấp sự sẵn có về công nghệ, tạo ra các phát minh, sáng chế trong phát triển các ngành công nghiệp mới phục vụ cho phát triển công nghiệp. Hệ thống các cơ quan nghiên cứu, trường đại học chưa thực sự làm tốt vai trò cung cấp các giải pháp và kết nối với doanh nghiệp để thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu.

Thứ năm, việc thực hiện các biện pháp chính sách đã ban hành về đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế chưa thu nhiều kết quả. Đến nay, môi trường đầu tư kinh doanh tuy có cải thiện, nhưng vẫn chưa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. Năng lực áp dụng và hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp còn thấp.

Thứ sáu, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên sáng tạo và đổi mới công nghệ diễn ra trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, vừa tạo ra cơ hội cho phát triển nhưng cũng nảy sinh nhiều thách thức mới xuất hiện. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi phải có những đổi mới tư duy và sáng tạo, có cam kết mạnh mẽ và chỉ đạo quyết liệt, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; phải có những cải cách mạnh mẽ về thể chế thị trường của nền kinh tế để mở rộng không gian và tạo động lực mới cho huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực; khuyến khích và tạo điều kiện để tất cả tầng lớp nhân dân đều tham gia vào quá trình đổi mới và phát triển đất nước.

CMCN 4.0 đặt ra nhiều thách thức đối với phát triển kinh tế-xã hội và từ đó đối với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN & ĐMST) của mỗi quốc gia. Do đó, Việt Nam cần xác định rõ đặc thù của những vấn đề kinh tế - xã hội đặt ra đối với KHCN & ĐMST của đất nước, có bước đi thận trọng, đồng thời phải có sáng tạo riêng.

Trước những thách thức trên, yêu cầu đặt ra đối với ngành KH&CN trong nhiệm kỳ Đại hội XIII đã được nghiên cứu và xác định cụ thể trong các văn bản của Đảng và Nhà nước, như Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 27/9/2019 về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Dự thảo “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030” trình Đại hội XIII của Đảng.

KHCN & ĐMST phải thể hiện là lực lượng sản xuất trực tiếp, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhanh và bền vững. Thúc đẩy phát triển KHCN & ĐMST trên tất cả các ngành, lĩnh vực.

NHỮNG GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI

Giải pháp chung là phải chuyển từ tăng trưởng dựa trên tích lũy đầu vào (vốn, lao động, đất đai, nguyên liệu) sang tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo (tri thức, công nghệ, thể chế) trong đó vai trò của KH&CN là trung tâm và các doanh nghiệp trở thành nhân tố chủ đạo cho đổi mới công nghệ cùng với chính phủ và viện nghiên cứu, trường đại học.

Các giải pháp cụ thể bao gồm:

Một là, nhóm giải pháp về giáo dục - đào tạo

Bên cạnh duy trì cập nhật và đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đáp ứng nhu cầu của một nền kinh tế đang bắt kịp chủ yếu ứng dụng các công nghệ sẵn có, thu hút các nguồn lực và nâng cao chất lượng đầu tư vào giáo dục đại học và sau đại học, tạo thành nền tảng phát triển công nghệ mới, công nghệ lõi cho Việt Nam.

Đổi mới đào tạo sau đại học gắn chặt với nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Phát huy vai trò và tạo cơ chế phù hợp để các trường đại học, viện nghiên cứu có thể tăng cường nền tảng vốn con người cho đổi mới, sáng tạo, gắn liền các hoạt động nghiên cứu ứng dụng với nhu cầu doanh nghiệp và nền kinh tế.

Hai là, nhóm giải pháp về khoa học, công nghệ

Tái cấu trúc các chương trình, nhiệm vụ KH&CN theo chuỗi giá trị của sản phẩm, tạo giá trị gia tăng.

Tập trung phát triển sản phẩm quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao để hình thành các ngành nghề mới và các sản phẩm mới, giá trị gia tăng cao, nhất là lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh như: nông nghiệp, công nghiệp chế biến chế tạo, dịch vụ, công nghệ thông tin,...

Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo cùng với tăng cường huy động vốn cổ phần thay cho vốn vay ngân hàng thông qua huy động các nhà đầu tư thiên thần, gọi vốn cộng đồng, hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm, tạo điều kiện để hình thành nhanh các công nghệ mới và các doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ.

Xây dựng và triển khai các chính sách mang tính đột phá để khuyến khích và thúc đẩy đổi mới, sáng tạo trong khu vực doanh nghiệp, dịch vụ công; nhất là hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới công nghệ trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ công.

Hoàn thiện các chính sách về kinh tế nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho các hoạt động KHCN & ĐMST, tạo động lực cho doanh nghiệp đầu tư cho ứng dụng, đổi mới và phát triển công nghệ; Tập trung nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp.

Ba là, nhóm giải pháp về thu hút nhân tài

Xây dựng và triển khai các cơ chế, chính sách, giải pháp thu hút các chuyên gia KH&CN, các tài năng sáng tạo và kinh doanh ở trong và ngoài nước, tận dụng các nguồn lực và thị trường tri thức quốc tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo được xây dựng trên một nền kinh tế mở.

Thúc đẩy liên kết các mạng lưới đổi mới sáng tạo trong và ngoài nước, thúc đẩy vai trò then chốt, lan tỏa của các trung tâm trí tuệ, trung tâm đổi mới, sáng tạo đối với sự phát triển thông minh và bền vững ở các tỉnh, thành phố của Việt Nam.

Bốn là, nhóm giải pháp về sở hữu trí tuệ

Xây dựng và triển khai Chiến lược Sở hữu trí tuệ quốc gia, nâng cao năng lực của hệ thống pháp lý nhằm nâng cao năng lực xây dựng và quản trị tài sản trí tuệ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ, tạo ra giá trị cao cho các tài sản trí tuệ được hình thành từ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Năm là, nhóm giải pháp về phát triển công nghệ số và thúc đẩy chuyển đổi số

Xây dựng và triển khai Đề án Chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy các cơ quan của nhà nước và doanh nghiệp phát triển dựa trên nền tảng kỹ thuật số nhằm phát triển kinh tế số, và là giải pháp cho một số vấn đề lớn của tăng trưởng như ô nhiễm, đô thị hóa, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên...

Phát triển và ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ, đặc biệt là công nghệ số trong xu thế của cuộc CMCN 4.0 như dữ liệu lớn, Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo,…

Sáu là, nhóm giải pháp về tái cơ cấu ngành công nghiệp và thị trường lao động

Tiến hành tái cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng phát triển các ngành công nghiệp dựa trên đổi mới sáng tạo và các ngành mới nổi.

Khuyến khích và thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi sang các mô hình kinh doanh mới.

Triển khai các giải pháp nâng cao tính linh hoạt của thị trường lao động, tạo điều kiện cho tăng trưởng năng suất cao hơn, đáp ứng những thay đổi về công việc và yêu cầu mới liên tục được đặt ra từ những công nghệ mới nổi./.

Bùi Thế Duy

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ